Sưu tầm: các
mẫu quy trình nghỉ việc
Xây dựng văn hóa giao du công ty theo mô hình Nhật hay Mỹ
Từ xưa đến nay, phong cách làm việc và quản lý của các thương lái luôn chịu
liên quan mạnh mẽ từ môi trường văn hoá nơi họ được sinh ra, lớn lên và được
giáo dục. Mỗi một nhà nước, dân tộc có những đặc điểm văn hoá riêng biệt trình
bày qua hệ thống các giá trị, chuẩn mực, niềm tin, thái độ và hành vi. Những
nguyên tố này sẽ quyết định giá trị và niềm tin của thương lái đối với công tác,
nhân viên hay đối tác và giúp hình thành nên những mô hình hành vi cụ thể trong
các tổ chức của họ. Chính cho nên, những người thuộc các nền văn hoá khác nhau
thường có phong cách làm việc và quản trị khác nhau.
Bài viết này sẽ phân tích tác động của văn hoá đối với hai phong cách làm
việc và quản trị gần như trái ngược: phong cách Nhật Bản và phong cách Hoa Kỳ.
Ngoại giả, bài viết không có tham vẳng đưa ra một phân tách toàn diện mà chỉ tụ
hội vào hai góc cạnh: giao du tại nơi làm việc và phong cách lãnh đạo.
Qua quýt về văn hoá Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia đảo với một nền văn hoá mặn mà bản sắc dân tộc. Điều
này có thể được giảng giải là do đa phần quần chúng. # Nhật Bản là người bản địa
và tương đối đồng nhất về văn hoá. Người Nhật nức danh với triết lý wa nhấn mạnh
sự hoà hợp trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với thiên
nhiên và con người với doanh nghiệp. Đây là triết lý chi phối niềm tin, thái độ
và hành vi của người Nhật. Với người Nhật, lợi ích tập thể luôn được đặt cao hơn
ích lợi cá nhân và duy trì các mối quan hệ hoà hợp luôn được đặt thành ưu tiên
hàng đầu. Xã hội Nhật Bản đề cao sự đồng thuận, hiệp tác, tính kiên nhẫn, niềm
tin và trách nhiệm giữa người với người. Đối đầu, phê phán, tranh biện… đều được
tránh né để duy trì sự hoà hợp cũng như để giữ thể diện. Nhật Bản được xem là
nền văn hoá có khoảng cách quyền lực tương đối cao (high power distance) và hệ
thống tôn ti ngôi thứ tương đối chặt chẽ (highly hierarchical system) . Sự phân
phối quyền lực không đồng đều được chấp nhận một cách đương nhiên và mọi người
thường hành xử trong phạm vi vị trí xã hội của họ cho phép. Đây cũng là nền văn
hoá phụ thuộc nhiều và ngữ cảnh (high context culture) với đặc trưng là các phát
ngôn được hiểu dựa trên ngữ cảnh chứ không chỉ thuần tuý trên ngữ nghĩa của
từ.
Sơ lược về văn hoá Mỹ
Khác với Nhật Bản, Mỹ là một quốc gia rộng lớn quy tụ những người di cư từ
khắp nơi trên thế giới. Bởi vậy nhà nước này sở hữu một nền văn hoá hết sức đa
dạng. Nhìn chung, văn hoá Mỹ nhấn mạnh quyền tự do và chủ nghĩa cá nhân. Mỹ là
nước đứng đầu trong bảng xếp hạng chỉ số chủ nghĩa cá nhân trên toàn cầu. Thực
dụng và thiếu kiên nhẫn là những tính từ hay được sử dụng nhất để thể hiện về xã
hội Mỹ. Cạnh tranh, đối đầu, tranh luận… được chấp thuận một cách hiển nhiên như
một phương pháp để trình bày cái tôi và đạt tới chân lý. Đây là xã hội mà con
người chú tâm vào công việc chứ không phải vào các mối quan hệ. Hoàn tất tốt
công tác được xem là quan trọng hơn rất nhiều so với việc duy trì sự hoà hợp xã
hội. Người Mỹ đặc biệt nhấn mạnh bình đằng xã hội và đồng đẳng trong phân phối
quyền lực. Họ tránh các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và những tình huống dẫn
tới các bổn phận lâu dài. Đối với người Mỹ, lợi ích ngắn hạn là thứ mà họ tìm
kiếm và thành công cá nhân được xem là thước đo vị trí của một người trong xã
hội.
Nhật Bản
Giao tế có thể là một thách thức thực thụ cho những người nước ngoài làm việc
tại Nhật Bản. Như đã đề cập ở trên, Nhật Bản là một nước có nền văn hoá phụ
thuộc nhiều vào bối cảnh. Trong giao thiệp, người Nhật thường sử dụng cách nói
gián tiếp và hàm ý. Vì vậy, nhiều điều không được nói ra mà phải ngầm hiểu dựa
trên bối cảnh và văn hoá. Với người Nhật, chỉ một đôi từ cũng có thể truyền vận
chuyển một thông điệp phức tạp mà chỉ những người cùng nền văn hoá mới hiểu
được. Điều này gây khó khăn lớn cho những người đến những các nền văn hoá khác.
Để hiểu được những phát ngôn của các đồng nghiệp hay đối tác Nhật Bản, người đối
thoại cần nắm được bối cảnh cụ thể của cuộc nói chuyện, nền tảng văn hoá cũng
như vị trí xã hội của người phát ngôn. Bên cạnh đó, những nhân tố khác cũng
không kém phần quan yếu trong việc truyền chuyên chở ý nghĩa của thông điệp là
cử chỉ, thái độ hay những thể hiện cảm xúc trên bộ mặt. Có thể nói, ngôn từ chỉ
là một phần rất nhỏ trong giao tiếp của người Nhật. Với những người nước ngoài
chưa quen với văn hoá Nhật, điều này có thể gây nhiều khó khăn. Họ phải đối mặt
với những thông điệp mà theo họ là không rõ ràng, phải đoán ý nghĩa sâu xa của
các thông điệp ẩn sau cái vỏ ngôn ngữ cũng như phải khẳng định lại một cách cẩn
thận và chi tiết để giải mã các ẩn ý và chắc chắn rằng họ nắm bắt đúng ý thức
của các phát ngôn.
Một nhân tố văn hoá khác cũng thúc đẩy mạnh đến cách giao dịch của người
Nhật. Nhật Bản là nước có nền văn hoá tập thể nhấn mạnh sự hoà hợp của các mối
quan hệ. Vì thế cách nói gián tiếp được sử dụng nhằm duy trì sự hoà hợp này. Khi
làm việc, người Nhật có thể có những quan điểm mạnh mẽ về một vấn đề nào đó
nhưng họ không trực tiếp phát biểu mà thường dùng cách nói theo đường vòng và
với những ngôn từ vô cùng nhẹ nhàng. Ví dụ, khi bị quản trị hoặc đồng nghiệp đối
xử không công bằng, người Nhật hi hữu khi đề nghị một buổi họp trực tiếp để làm
rõ vấn đề mà thường gặp và chuyện trò một cách không chính thức đồng thời đề cập
vấn đề một cách khôn cùng tế nhị. Do không đi thẳng vào vấn đề nên người nước
ngoài, nhất là những người thuộc các nền văn hoá phương Tây, thường cho rằng
người Nhật hèn nhát và không trung thực. Bên cạnh đó, với người Nhật, việc duy
trì không khí hoà hợp tại nơi làm việc quan trọng hơn việc tìm mọi cách để biểu
thị và bảo vệ cái tôi. Họ tránh đối mặt bằng cáchh nhường chỗ để người khác phát
biểu và cân nhắc những phát biểu đó để đưa ra quyết định riêng của mình. Người
Mỹ đến làm việc tại Nhật ban sơ có thể thấy thất vọng và mệt mỏi khi mất rất
nhiều thời kì để trình bày, hiểu và giải quyết một vấn đề, vì thế họ dễ trở nên
thiếu nhẫn nại và bực bội. Bên cạnh đó, do người Nhật rất dễ bị cảm thấy đe nạt
trước thái độ hung hăng hay đả kích, tức giận sẽ chỉ làm tình huống trở thành
tồi tệ hơn mà thôi.
Mỹ
Trái ngược với Nhật Bản, Mỹ lại là nền văn hoá ít phụ thuộc vào bối cảnh. Mọi
người ưa cách nói thẳng và trực tiếp trong giao tế. Với người Mỹ, ý nghĩa của
phát ngôn được hiểu trên chính ngữ nghĩa của từ chứ không phụ thuộc vào bối cảnh
giao thiệp hay những dấu hiệu văn hoá. Người ta có thể dễ dàng hiểu được những
điều người Mỹ muốn nói mà không phải lo ngại rằng vẫn còn những ẩn ý đằng sau
lớp vỏ ngôn từ. Đặc điểm văn hoá này tương tác mạnh mẽ đến văn
hoá cơ quan tại Mỹ. Tại nơi làm việc, người Mỹ sẵn sàng thổ lộ thái
độ và quan điểm một cách chính trực cũng như dùng cách nói ngắn gọn, trực tiếp
nhất để người khác có thể hiểu ngay tức khắc mà không cần phải đoán già đoán
non. Tỉ dụ, khi bàn bạc về việc cải tiến môi trường làm việc, người Mỹ sẽ không
ngại ngần đề cập những yếu kém trong thực tại quản lý và chính trực đưa ra biện
pháp nhằm cải thiện tình hình mà không sợ làm mếch lòng người quản lý. Mọi thứ
đều được thể hiện trắng
đen rõ ràng nhằm hạn chế tối đa sự mập mờ. Chính vì người Mỹ luôn
ưa thích nói thẳng và nói thật, họ cũng chờ đợi một thái độ tương tự ở người
khác. Họ luôn mong muốn người hội thoại nói xác thực điều họ muốn nói, đi thẳng
vào vấn đề để họ có thể hiểu đúng và đưa ra được kết luận sau câu chuyện. Khi
đàm phán với các nhà kinh doanh Mỹ hay giao dịch với các đồng nghiệp Mỹ, cần
tránh cách nói lòng vòng, hàm ý vì rất có thể họ sẽ không hiểu hoặc hiểu
lầm.
Mỹ là nước tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, theo đó họ quan tâm tới bản thân nhiều
hơn tới người khác. Người Mỹ không bao giờ ngần ngại đãi đằng những điều họ muốn
và cần. Tỉ dụ, họ luôn sẵn sàng yêu cầu được tăng lương hay cải thiện điều
kiện cần lao nếu họ cho rằng họ xứng đáng được hưởng như vậy. Họ cũng sẵn sàng
giãi tỏ sự không hài lòng với các nhà quản lý khi thoả thuận giữa họ không được
tôn trọng. Người Nhật thường xem tính cách này của người Mỹ như là một biểu thị
của sự hung hăng. Trên thực tế, khi những người thuộc các nền văn hoá đối lập
cùng làm việc với nhau, những khác biệt trong giao tế có thể tạo ra cảm giác
rằng đôi bên không có lợi ích chung và thành thử có thể tác động lớn đến sự cộng
tác giữa các bên. Hơn nữa, trong khi người Nhật sẵn sàng gạt ích lợi cá nhân
sang một bên nhằm duy trì mối quan hệ hoà hợp, người Mỹ lại không như vậy. Họ
luôn có khuynh hướng đấu tranh để đạt được những điều họ muốn bởi theo quan niệm
của họ, cạnh tranh và đối đầu là những việc tất nhiên và cần thiết để đạt được
thành quả cá nhân.
Nhật Bản
Với một nền móng văn hoá nhấn mạnh sự hoà hợp xã hội, người Nhật thường áp
dụng cách lãnh đạo đặt trọng tâm vào con người chứ không phải vào công việc.
Những người theo chủ nghĩa tập thể như người Nhật tin rằng nếu mọi người ít chú
ý đến lợi ích cá nhân và quan hoài tới mối quan hệ giữa người với người hơn thì
kiên cố sẽ đạt được lợi ích tập thể. Cho nên, ưu tiên hàng đầu của người Nhật là
là duy trì bầu không khí hoà thuận tại nơi làm việc. Không dựa nhiều vào các quy
định hay lề luật, các nhà lãnh đạo Nhật Bản thường sử dụng chuẩn mực văn hoá để
quản trị nhân viên và điều hành đơn vị. Trong đời sống xã hội, sự đàng hoàng,
trách nhiệm và áp lực đạo đức là những giá trị căn bản quan yếu nhất nhằm duy
trì sự hoà hợp xã hội. Những nhân tố này cũng được ứng dụng đầy đủ trong môi
trường kinh doanh. Chúng còn được sử dụng làm thước đo để đánh giá mối quan hệ
giữa lãnh đạo và nhân sự trong cơ quan. Trong các doanh nghiệp Nhật Bản, lãnh
đạo thường đóng vai trò là người bảo vệ nhân sự. Họ rất quan hoài đến ích lợi
của nhân viên (cả lợi ích vật chất và tinh thần), luôn thông cảm và tìm cách hỗ
trợ nhân viên trong công việc. Người Mỹ có thể thấy kinh ngạc khi các nhà quản
trị Nhật Bản thường thiếp lập mối quan hệ gần gụi với đồng nghiệp và viên chức
và biểu đạt nhiều thông cảm hơn là giám sát. Trong văn hoá Nhật Bản, một mối
quan hệ tốt đẹp với mọi người là nền tảng cho sự cam kết của các bên và lãnh đạo
Nhật sử dụng cách đó để giành được lòng trung thành của nhân sự.
Do nhấn mạnh vào sự hoà hợp trong các mối quan hệ nên trong tuyển dụng ,
các nhà quản trị Nhật Bản thường chú trọng vào việc kiểm tra sự thích hợp của
ứng viên với văn hoá của đơn vị chứ không đặt nặng vấn đề họ có thực thụ ăn nhập
với đề nghị công tác hay không. Thành thử, phân tích và trình
bày công tác không đóng vai trò quá quan yếu trong tuyển dụng ở
Nhật Bản. Khi đã tìm được nhân viên mà họ cho là thích hợp với văn hoá của cơ
quan, các nhà lãnh đạo Nhật Bản thường có khuynh hướng bảo đảm một chế độ cần
lao suốt đời cho viên chức đó. Nếu tình hình kinh doanh của cơ quan diễn biến
xấu dẫn đến doanh thu sụt giảm, lãnh đạo sẽ là những người bị cắt lương trước
hết chứ không phải là nhân viên. Sa thải viên chức cũng là biện pháp chung cục
mà lãnh đạo Nhật Bản chọn lọc và họ thường chỉ làm như vậy khi không còn con
đường nào khác. Chính vì được coi trọng và bảo vệ như vậy nên nhân sự ở Nhật
thường cực kỳ trung thành với tổ chức.
Mỹ
Hoàn toàn đối nghịch với Nhật Bản, Mỹ vận dụng triệt để phong cách lãnh đạo
giao hội vào công việc. Là một xã hội mang tính chủ nghĩa cá nhân hàng đầu trên
toàn cầu, người Mỹ đặc biệt nhấn mạnh sự tự chủ và thành công cá nhân. Người Mỹ
tin rằng cá nhân là trung tâm của thế giới, lợi ích cá nhân quan yếu hơn lợi ích
tập thể và nỗ lực của cá nhân là cần thiết để đạt được thành công. Người Mỹ sẵn
sàng đương đầu cho sự toại nguyện cá nhân cho dù có phải hy sinh bầu không khí
hoà thuận của nhóm. Nét văn hoá này được trình bày rất rõ rệt trong các tổ chức
Mỹ. Lãnh đạo các tổ chức Mỹ quan hoài trên hết đến thành tích công việc của cá
nhân và lấy kết quả công việc làm trung tâm của sự quản trị. Người lao động được
khuyến khích thanh minh ý kiến, phát huy sáng kiến tại nơi làm việc nhằm tăng
hiệu suất. Khác với ở các cơ quan Nhật, nơi mà nhân viên được đánh giá dựa trên
việc họ cộng tác ra sao với đồng nghiệp, lãnh đạo Mỹ chỉ kiểm
tra viên chức trên kết quả công việc của cá nhân. Họ đóng vai trò
là người viện trợ nhân sự: đưa ra hướng dẫn, lắng nghe quan điểm nhân sự để tìm
ra vấn đề và giúp viên chức giải quyết vấn đề. Tất cả đều nhằm mục đích đạt được
kết quả công việc như mong muốn. Có thể nói rằng mối quan hệ giữa lãnh đạo và
nhân sự trong các tổ chức Mỹ hoàn toàn thuần tuý là quan hệ công việc.
Điều đáng lưu ý là do Mỹ là một xã hội có thiên hướng ngắn hạn (short-term
orientation) theo đó mọi người chú ý đến lợi ích trước mắt hơn là lâu dài, lãnh
đạo Mỹ thường khuyến khích những hành vi cần lao mang lại lợi ích ngay tức khắc
cho đơn vị. Điều này hoàn toàn trái ngược với Nhật Bản, nơi các lãnh đạo luôn
đặt ích lợi dài hạn của công ty lên hàng đầu. Vì lý do này, trong các cơ quan
của Mỹ, những nhân sự có kết quả lao động tốt và đóng góp ngay cho doanh nghiệp
thường được thưởng và cất nhắc nhanh chóng. Những người có kết quả lao động kém
có thể dễ dàng bị sa thải bất cứ lúc nào.
Kết luận
Dị biệt văn hoá là điều không thể tránh khỏi. Điều nên làm là bằng lòng những
dị biệt đó và tránh tây vị và định kiến. Với những người đang hoặc có ý định làm
việc tại một môi trường văn hoá mới, điều họ cần làm là tìm hiểu về nền văn hoá
đó để tránh sốc văn hoá cũng như để thích ứng với môi trường mới. Ngoài ra, cần
lưu ý là không phải tất cả mọi người đều mang trong mình những đặc tính văn hoá
của dân tộc họ, cho nên cần hết sức tránh điển hình hoá. Ví dụ, một người Nhật
Bản hoàn toàn có thể tiếp thụ những giá trị văn hoá Mỹ và hành xử như một người
Mỹ. Hơn nữa, do con người có thể bị thúc đẩy bởi nhiều nguyên tố khác ngoài văn
hoá như giáo dục hay thúc đẩy từ các nhóm khác trong quá trình cần lao, họ có
thể có những giá trị và chuẩn mực vượt ra ngoài các giá trị truyền thống.
Chính
vì vậy, những người đến làm việc tại một môi trường văn hoá mới cần khôn xiết
linh hoạt để có thể thích ứng và thành công.
Theo doanhnhan360.Com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét